BAN
CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
ỦY BAN KIỂM TRA ------ |
ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM
--------------- |
Số: 09-HD/UBKTTW
|
Hà Nội, ngày 06 tháng 06 năm 2013
|
THỰC HIỆN MỘT SỐ ĐIỀU CỦA QUY
ĐỊNH SỐ 181- QĐ/TW NGÀY
30-3-2013 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ XỬ LÝ KỶ LUẬT ĐẢNG VIÊN VI PHẠM
Căn cứ Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XI;
Căn cứ Quy định số 181-QĐ/TW ngày 30-3-2013 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm;
Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn cụ thể một số điều của Quy định như sau:
Ngoài những nội dung giải thích từ ngữ tại Điều 5 trong
Quy định số 181-QĐ/TW ngày 30-3-2013 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng
viên vi phạm, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Người đứng đầu là người chịu trách nhiệm cao nhất trong các tổ chức (cấp
ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị) trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
nhiệm vụ của các tổ chức đó theo chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Đối với các tổ chức hoạt động theo cơ chế tập thể, biểu
quyết theo đa số (Ủy ban, Hội đồng quản trị, Hội đồng quản lý...
) thì Chủ tịch được coi như là người đứng đầu, Phó Chủ tịch (chuyên trách hoặc
không chuyên trách) được coi như là cấp phó của người đứng đầu.
2. Cấp phó của người đứng đầu là người được phân công giúp người đứng đầu phụ trách lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức (cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn
vị) phải chịu trách nhiệm như người đứng đầu về chức trách, nhiệm vụ được giao.
3. Cán bộ dưới quyền (mà người đứng đầu phải chịu trách nhiệm liên đới) là cán
bộ, công chức, viên chức, nhân viên hoặc sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ trong lực
lượng vũ trang ở trong
tổ chức, cơ quan, đơn vị mà đảng viên đó là cấp trưởng, cấp phó hoặc cấp
ủy viên được phân công trực tiếp phụ trách.
4. Trách nhiệm của đảng viên:
a) Trách nhiệm trực tiếp: là trách
nhiệm đối với hành vi của mình trong lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý, phụ trách, tổ chức thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
b) Trách
nhiệm liên đới: là trách nhiệm của
người đứng đầu khi để xảy ra vi phạm trong lĩnh vực công tác được giao phụ
trách hoặc trong cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới trực tiếp phụ trách hoặc khi
cán bộ dưới quyền trực tiếp quản lý, phụ trách vi phạm.
5. Thiếu trách nhiệm: là việc
đảng viên thực hiện không đầy đủ, không đúng chức trách, nhiệm vụ; không đúng
nguyên tắc, thủ tục, quy trình, thời hạn theo quy định.
6. Trách nhiệm hình sự: là trách
nhiệm của người phạm tội phải chịu sự tác động của các biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước, chịu các hình phạt do Bộ Luật Hình sự quy định.
1. Phạm
vi, đối tượng (Điều 1 của Quy định)
Về Khoản 2, Điều 1:
Đảng viên vi phạm trước đây, nhưng sau khi chuyển công tác, nghỉ việc hoặc nghỉ hưu mới
phát hiện vi phạm vẫn phải xem xét, kết luận; nếu vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì phải thi hành kỷ luật theo đúng quy định của Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước và những nội dung nêu
trong Quy định này.
- Đảng
viên sau khi chuyển
sinh hoạt đảng sang tổ chức đảng khác (do thay đổi vị trí công tác, nghỉ việc,
nghỉ hưu) mới phát hiện hoặc bị tố cáo có vi phạm kỷ luật ở nơi sinh hoạt đảng
trước đây mà chưa được xem xét, xử lý thì tổ chức đảng cấp trên của các tổ chức đảng đó xem xét, xử lý theo quy định
về phân cấp quản lý cán bộ.
- Khi
tổ chức đảng có thẩm quyền đang xem xét, xử lý đảng viên vi phạm mà tổ chức
đảng nơi đảng viên vi phạm công tác, sinh hoạt bị giải thể hoặc sáp nhập, chia
tách hoặc kết thúc hoạt động thì tổ chức đảng có thẩm quyền tiếp tục xem xét,
xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo tổ chức đảng cấp trên của tổ chức đảng đó
xem xét, xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm theo quy định về phân cấp quản lý cán
bộ.
- Đối
với đảng viên là cấp ủy viên hoặc cán bộ thuộc diện cấp ủy các cấp quản lý đã
thôi giữ chức vụ hoặc đã nghỉ hưu có vi phạm kỷ luật khi đang công tác, nay mới
phát hiện thì thẩm quyền thi hành kỷ luật được thực hiện như đối với đảng viên
là cấp ủy viên các cấp hoặc cán bộ thuộc diện cấp ủy các cấp quản lý đang đương
chức; vi phạm kỷ luật khi đã nghỉ hưu thì việc xử lý kỷ luật theo phân cấp quản
lý đối với cán bộ đã thôi giữ chức vụ hoặc đã nghỉ hưu theo quy định của Bộ
Chính trị và cấp ủy, ban thường
vụ cấp ủy các cấp.
2.
Nguyên tắc xử lý kỷ luật (Điều 2 của Quy định)
a) Về Khoản 2, Điều 2:
Việc thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm phải thực hiện đúng phương hướng,
phương châm, nguyên tắc, thủ tục và đúng thẩm quyền theo quy định của Điều lệ Đảng, quy định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và của Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
- Về phương hướng xử lý
kỷ luật đảng viên vi phạm:
+ Việc xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm phải được các cấp
ủy lãnh đạo chỉ đạo chặt chẽ, thận trọng, không xử lý kỷ luật tràn lan. Việc
thi hành kỷ luật cần tập trung
vào những vi phạm như suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với
những biểu hiện khác nhau về phai nhạt lý tưởng, chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ
hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, lợi ích nhóm, lợi
ích cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc; vi phạm quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng; về chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ.
+ Đảng viên ở bất kỳ cương vị nào, nếu vi phạm một trong
những nội dung trên đều phải được xem xét, kết luận, xử lý nghiêm minh. Đối với
những vi phạm khác cần quan tâm giúp đỡ để đảng viên sửa chữa; nếu vi phạm đến
mức phải xử lý kỷ luật thì phải xem xét, thi hành kỷ luật kịp thời, nghiêm minh để giáo
dục, răn đe, phòng ngừa vi phạm.
- Về phương châm thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm:
+ Đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử lý công minh, chính
xác, kịp thời.
+ Việc xử lý kỷ luật phải đúng người vi phạm, đúng nội
dung vi phạm. Khắc phục tình trạng "nhẹ
trên, nặng dưới", các biểu hiện lệch lạc, hiện tượng tiêu cực trong xem
xét, xử lý kỷ luật.
+ Việc xem xét, xử lý kỷ luật phải khẩn trương, không để
chậm trễ, kéo dài, gây khó khăn cho việc thẩm tra, xác minh, kết luận, xử lý.
Khi tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định kỷ luật phải công bố và
trao quyết định đó cho đảng viên vi phạm và tổ chức đảng quản lý đảng viên vi phạm, không được trì hoãn.
+ Đảng viên là người dân tộc thiểu số đang công tác, sinh
hoạt ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn, đảng viên theo tôn giáo
vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì tùy theo tình hình thực tế mà áp dụng
xử lý kỷ luật cho phù hợp.
- Về thủ tục thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm:
Thi hành kỷ luật đối với đảng viên, phải thực hiện đúng các thủ tục sau đây:
+ Đảng viên vi phạm kỷ luật phải được kiểm điểm trước chi
bộ, tự nhận hình thức kỷ luật và
biểu quyết về hình thức kỷ luật đối với mình. Trường hợp có đầy đủ bằng chứng,
nếu đảng viên vi phạm từ chối kiểm điểm hoặc đang bị tạm giam, thì tổ chức đảng
có thẩm quyền vẫn tiến hành xem xét, xử lý
kỷ luật. Trường hợp cần thiết, cấp ủy và ủy ban kiểm tra có thẩm quyền trực tiếp
xem xét, xử lý kỷ luật.
+ Chi bộ hoặc cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy hướng dẫn đảng
viên vi phạm kỷ luật chuẩn bị bản tự kiểm điểm nghiêm túc. Hội nghị chi bộ, ban
thường vụ cấp ủy, cấp ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn nơi đảng viên vi phạm sinh
hoạt, hoặc công tác nghe đảng viên tự kiểm điểm, góp ý kiến, kết luận rõ về nội
dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm và biểu quyết quyết định
kỷ luật theo thẩm quyền hoặc biểu quyết đề nghị tổ chức đảng có thẩm quyền xem
xét, quyết định kỷ luật.
+ Đảng viên vi phạm là cấp ủy viên hoặc cán bộ thuộc diện
cấp ủy quản lý cùng với việc kiểm điểm ở chi bộ còn phải kiểm điểm ở những tổ chứcđảng nào nữa thì do cấp ủy hoặc
ủy ban kiểm tra của cấp ủy quản lý đảng viên đó quyết định. Trường hợp đặc biệt
(đảng viên vi phạm khi thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao hoặc nội dung vi phạm
liên quan đến bí mật của Đảng và Nhà nước
mà chi bộ không biết, hoặc đảng viên vi phạmtrong cùng một vụ việc có liên quan
đến nhiều người, nhiều ngành, nhiều cấp) thì cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra có thẩm quyền trực tiếp xem xét,
quyết định kỷ luật, không cần yêu cầu đảng viên đó phải kiểm điểm trước chi bộ.
+ Trước khi quyết định kỷ luật, đại diện tổ chức đảng có thẩm quyền nghe đảng viên
vi phạm trình bày ý kiến và ý kiến này được báo cáo đầy đủ (cùng với bản tự
kiểm điểm của đảng viên đó) khi tổ chức đảng có thẩm quyền họp để xem xét,
quyết định kỷ luật. Sau khi quyết
định kỷ luật, đại diện tổ chức đảng có thẩm quyền thông báo cho đảng viên bị
thi hành kỷ luật biết rõ lý do để chấp hành.
+ Cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền nghe đảng viên vi
phạm bị kỷ luật trình bày ý kiến trước khi quyết định kỷ luật, có thể tiến hành
ngay trong cuộc họp xem xét, xử lý kỷ luật hoặc trước khi tổ chức cuộc họp đó. Những ý kiến của
đảng viên trình bày phải được báo cáo trước hội nghị xem xét, xử lý kỷ luật
đảng viên. Trường hợp đảng viên vi phạm kỷ luật không đến được thì phải có báo
cáo bằng văn bản để lưu vào hồ sơ kỷ luật.
+ Đảng viên có quyền và trách nhiệm trình bày ý kiến của
mình với tổ chức đảng có thẩm quyền trước khi bị thi hành kỷ luật. Tổ chức đảng có thẩm quyền phải mời đảng
viên vi phạm đến trình bày ý kiến trước khi quyết định kỷ luật; nếu vì lý do
nào đó mà đảng viên vi phạm không trực tiếp đến để trình bày ý kiến với tổ chức
đảng có thẩm quyền được thì phải báo cáo bằng văn bản cho tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, lưu
vào hồ sơ kỷ luật. Nếu đảng viên cố tình không đến, hoặc không có báo cáo bằng
văn bản thì tổ chức đảng có thẩm quyền vẫn xem xét, xử lý kỷ luật.
b) Về Khoản 3, Điều 2:
Khi xem xét, xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm phải căn cứ
vào nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm, các tình tiết
tăng nặng hoặc giảm nhẹ, thái độ tiếp thu phê bình và sửa chữa, khắc phục
khuyết điểm, vi phạm; mục tiêu, yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
và công tác xây dựng Đảng.
- Đề cao
trách nhiệm tự phê bình và phê bình của tổ
chức đảng và đảng viên; coi trọng
công tác tư tưởng, giáo dục, thuyết phục nhằm nâng cao tính tự giác của đảng
viên vi phạm. Đảng viên trong tổ chức đảng, chi bộ phải có tinh thần xây dựng,
chân thành, thẳng thắn, yêu thương đồng chí và công tâm, khách quan, thận trọng
trong việc góp ý phê bình đối với đảng viên vi phạm.
- Khi xem
xét, xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm phải: làm rõ nội dung, tính chất, mức độ,
tác hại, động cơ, nguyên nhân của vi phạm và căn cứvào thái độ tự giác, tinh
thần quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, vi phạm và khắc phục hậu quả đã gây ra;
đồng thời, phải xét trong bối cảnh lịch sử cụ
thể, khách quan, toàn diện nhằm đạt mục tiêu, yêu
cầu của việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị và công tác xây dựng Đảng.
c) Về Khoản 4, Điều 2:
Các hình thức kỷ luật đảng viên vi phạm thực hiện theo
đúng quy định của Điều lệ Đảng.
Đối với đảng viên chính thức: khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ. Đối
với đảng viên dự bị: khiển trách, cảnh cáo.
Đảng viên vi phạm đến mức khai trừ thì phải khai trừ;
không áp dụng hình thức xóa tên; cấp ủy viên vi phạm đến mức cách chức thì phải
cách chức, không cho thôi giữ chức; đảng viên dự bị vi phạm đến mức phải thi
hành kỷ luật thì áp dụng hình
thức khiển trách hoặc cảnh cáo, không đủ tư
cách thì xóa tên trong danh sách
đảng viên.
Đảng viên đang giữ một chức vụ trong Đảng, bao gồm: chức
vụ do đại hội bầu, cấp ủy bầu, chỉ định, hoặc bổ nhiệm mà vi phạm đến mức phải
kỷ luật cách chức thì xử lý như
sau:
- Đảng viên
tham gia nhiều cấp ủy, vi phạm đến mức phải cách chức cấp ủy viên cao nhất,
cách hết các chức vụ trong Đảng hoặc phải khai trừ thì do ban thường vụ cấp ủy
cấp trên trực tiếp của cấp ủy cao nhất mà đảng viên đó là thành viên quyết
định. Nếu cách chức cấp ủy viên cấp dưới thì do ban thường vụ cấp ủy quản lý
đảng viên đó quyết định.
- Trong
cùng một cấp ủy, nếu cách chức bí thư, phó bí thư thì còn chức ủy viên ban
thường vụ. Nếu cách chức ủy viên ban thường vụ thì còn chức cấp ủy viên. Khi
cách chức cấp ủy viên thì đương nhiên không còn chức bí thư, phó bí thư, ủy viên
ban thường vụ. Thành viên ủy ban kiểm tra là chủ nhiệm hoặc phó chủ nhiệm ủy
ban, khi cách chức ủy viên ủy ban kiểm tra thì đương nhiên không còn là chủ
nhiệm, phó chủ nhiệm ủy ban kiểm tra của cấp ủy đó; nếu cách chức vụ chủ nhiệm
hoặc phó chủ nhiệm thì vẫn còn là ủy viên ủy ban kiểm tra.
- Đảng viên
tham gia nhiều cấp ủy, giữ nhiều chức vụ, bị thi hành kỷ luật bằng hình thức
cách chức một chức vụ đang giữ thì cấp ủy có thẩm quyền phải xem xét đến các
chức vụ khác.
- Trường hợp
cấp ủy viên vi phạm đến mức phải kỷ luật cách chức nhưng lại chủ động xin rút
khỏi cấp ủy, thì vẫn phải thi hành kỷ luật bằng hình thức cách chức, không chấp
nhận cho rút khỏi cấp ủy.
d) Về Khoản
5, Điều 2:
Đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không “xử lý nội bộ"; bị tòa án tuyên phạt từ hình phạt cải
tạo không giam giữ trở lên thì phải
khai trừ; nếu bị xử phạt bằng hình phạt thấp hơn cải tạo không giam giữ hoặc được miễn truy cứu
trách nhiệm hình sự, bị xử phạt hành chính thì tùy nội dung, mức độ, tính chất,
tác hại và nguyên nhân vi phạm mà xem xét, thi hành kỷ luật đảng một cách thích hợp.
- Cấp ủy,
ban thường vụ cấp ủy và ủy ban kiểm tra từ cấp huyện trở lên khi phát hiện đảng
viên vi phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải chuyển hồ sơ sang cơ quan pháp
luật có thẩm quyền để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
theo quy định của pháp luật, không được giữ lại để chỉ xử lý về kỷ luật đảng.
Khi đảng viên vi phạm pháp luật đang bị cơ quan pháp luật
có thẩm quyền thụ lý theo quy định của pháp luật thì tổ chức đảng quản lý đảng viên không được can
thiệp để đảng viên chỉ bị xử lý kỷ luật về Đảng, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử lý về
chính quyền.
Đảng viên vi phạm kỷ luật của đoàn thể, vi phạm chính
sách, pháp luật của Nhà nước, tổ chức đảng có thẩm quyền sau khi xem xét, xử lý
về kỷ luật của Đảng, phải kịp thời chỉ đạo hoặc đề nghị tổ chức nhà nước, đoàn
thể chính trị - xã hội xem xét, xử lý về chính quyền hoặc đoàn thể đồng bộ với
kỷ luật đảng.
- Sau 15
ngày, kể từ ngày tòa án tuyên phạt từ cải tạo không giam giữ trở lên đối với đảng viên thì tòa án phải sao gửi bản án đã tuyên đến
cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra của cấp ủy quản lý đảng viên.
Căn cứ vào nội dung đã tuyên trong bản án, ủy ban kiểm tra giúp cấp ủy nghiên
cứu bản án, hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục và trình cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy xử
lý kỷ luật bằng hình thức khai trừ theo quy định của Điều lệ Đảng.
đ) Về Khoản
6, Điều 2:
Kỷ luật đảng không thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đoàn thể và các hình thức xử lý của pháp luật
Đảng viên bị thi hành kỷ luật về Đảng thì cấp ủy quản lý đảng viên đó phải kịp thời chỉ đạo tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã
hội có thẩm quyền, trong thời hạn 30 ngày làm
việc kể từ ngày công bố quyết định kỷ luật về Đảng, phải xem xét, xử lý kỷ luật
về hành chính, đoàn thể (nếu có) theo qui
định của cơ quan nhà nước và điều lệ của đoàn thể.
Khi các cơ
quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội đình chỉ công tác,
khởi tố bị can hoặc thi hành kỷ luật đối với cán hộ, hội viên, đoàn viên là đảng viên thì phải thông báo ngay bằng văn bản cho tổ chức đảng quản
lý đảng viên đó biết. Chậm nhất là 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông
báo, tổ chức đảng quản
lý đảng viên phải xem xét, xử lý kỷ luật về Đảng.
- Đảng viên
bị thi hành kỷ luật về Đảng thì cấp ủy quản lý đảng viên đó phải kịp thời gửi
báo cáo kết luận về những nội dung vi phạm và quyết định thi hành kỷ luật đảng
viên, đồng thời có văn bản yêu cầu tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã
hội có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính, đoàn thể (nếu có) theo quy định của cơ quan nhà
nước và điều lệ của đoàn thể.
- Về thời gian 30 ngày làm việc kể từ ngày công bố quyết
định kỷ luật về Đảng, thống nhất
cách tính là 30 ngày làm việc nối tiếp nhau, không kể ngày nghỉ lễ, tết, nghỉ
hàng tuần xen kẽ trong đó theo quy định của pháp luật.
- Trường
hợp đảng viên vi phạm từ chối dự họp để nghe công bố kỷ luật hoặc cố ý không
nhận quyết định kỷ luật thì chi bộ hoặc cấp ủy, ủy ban kiểm tra có thẩm quyền lập biên bản, lưu hồ sơ kỷ luật và quyết định kỷ luật có
hiệu lực như đã được công bố.
3. Các trường hợp chưa xem xét, xử lý kỷ luật và không xử
lý kỷ luật (Điều 4 của Quy định)
Về Khoản 1, Điều 4:
Đảng viên vi phạm đang trong thời gian mang thai, nghỉ
thai sản, đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc đang mất khả năng nhận thức, bị ốm đang điều trị nội trú tại bệnh viện
được cơ quan y tế có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
(từ cấp huyện trở lên) xác nhận
thì chưa xem xét,xử lý kỷ luật.
Đảng viên mắc bệnh hiểm nghèo hoặc mất khả năng nhận thức
được hiểu là: đảng viên đã thực
hiện hành vi vi phạm trong điều kiện sức khỏe bình thường, nhưng sau khi vi
phạm, tổ chức đảng có thẩm quyền đang xem xét, xử lý thì phát hiện đảng viên vi phạm bị bệnh
hiểm nghèo hoặc mất khả năng nhận thức đang điều trị. Tổ chức đảng có thẩm
quyền yêu cầu cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bệnh viện chuyên khoa xác
nhận tình trạng bệnh của đảng viên bằng văn bản để lưu vào hồ sơ và chỉ xem xét, xử lý kỷ
luật đảng viên vi phạm khi sức khỏe hồi phục bình thường; trường hợp đảng viên đang điều trị mà từ trần thì
không xem xét, xử lý kỷ luật.
a) Về Điểm a, Khoản 1, Điều 7:
Thiếu trách nhiệm trong việc chấp hành nghị quyết, chỉ
thị, quyết định, quy định, quy chế, kết luận của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Tổ chức nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện nghị
quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế, kết luận của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội không kịp thời, không đúng kế hoạch, thời gian,
đối tượng, thành phần và không đầy đủ nội dung.
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc
không chỉ đạo, thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, của cấp
trên và cấp mình.
- Không xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể;
không phân công nhiệm vụ cho từng đơn vị, tổ chức và cá nhân phụ trách chịu trách nhiệm triển khai thực
hiện.
- Tiến hành kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế, kết luận của Đảng
không đầy đủ, không thường xuyên, để cấp dưới trực tiếp thực hiện sai hoặc ban
hành quyết định sai, không phải do nhận thức hoặc cố ý vi phạm vì mục đích vụ
lợi.
- Lưu ý: "Kết
luận của Đảng" ở điểm này là kết luận bằng văn bản của tổ chức đảng có
thẩm quyền.
b) Về Điểm b, Khoản 1, Điều 7:
Bị kích động, xúi
giục, bị mua chuộc, lôi kéo, cưỡng ép người khác tham gia các hoạt động gây mất
dân chủ, mất đoàn kết nội bộ.
- Bị người khác tác động đến tinh thần dẫn đến mất tự chủ,
tham gia một cách thụ động.
- Bị người khác xúi dục hoặc thúc đẩy tham gia một cách bị
động.
- Bị người khác dùng
địa vị, các lợi ích vật chất và tinh thần khác làm sa ngã và đã làm theo sự sai
khiến
của họ.
- Bị người khác dùng mọi cách làm cho nghe theo và đứng về
phía họ, ủng hộ họ thực hiện hành vi vi phạm.
- Đánh giá, nhận xét cán bộ ngoài tổ chức, ngoài cuộc họp;
nội dung nhận xét, đánh giá không có căn cứ, có dụng ý xấu, gây mất đoàn kết
nội bộ.
c) Về Điểm c, Khoản 1, Điều 7:
Bị xúi giục, lôi kéo vào những việc làm trái nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Đảng; vi phạm quy chế dân chủ, quy chế làm việc
của cấp ủy, tổ chức đảng, các quy định của cơ quan, tổ chức,
đơn vị ở nơi công tác.
- Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; Đảng là một tổ
chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên
tắc cơ bản, thực hiện tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên,
địa phương phục tùng Trung ương; thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện
các nguyên tắc: tự giác, tự phê bình và phê bình, đoàn
kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và
Điều lệ Đảng, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Đảng viên
vi phạm một trong những nguyên tắc trên là vi phạm kỷ luật của Đảng.
d) Về Điểm a, Khoản 2, Điều 7:
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phủ quyết ý kiến của đa số
thành viên khi thông qua nghị quyết, chỉ thị quyết định, quy định, quy chế, kết luận thuộc thẩm quyền của tập thể.
- Quyết
định theo ý thức chủ quan của
mình trong khi tập thể đang bàn bạc, còn có nhiều ý kiến khác nhau.
- Dùng chức
vụ, quyền hạn của mình để bác bỏ ý kiến của đa số đã phát biểu nhằm áp đặt đi đến ban
hành nghị quyết, chỉ thị, quyết
định, quy định, kết luận bằng văn bản trái
với ý kiến phát biểu nhất trí của tập thể.
đ) Về Điểm a, Khoản 3, Điều 7:
Vô tổ chức, vô kỷ luật, cố ý bỏ sinh hoạt đảng, bỏ vị trí
công tác nhiều lần không có lý do
chính đáng; có hành vi chống lại các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quyết
định, quy định, quy chế, kết luận
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Vô tổ
chức, vô kỷ luật là việc đảng viên tùy tiện, không đặt mình trong hệ thống tổ chức của Đảng, không thực hiện đúng các quy
định của tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể mà mình
là thành viên.
- Đảng viên
có vi phạm đã được kiểm điểm, phê bình, giáo dục hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà
vẫn tiếp tục cố ý bỏ sinh hoạt đảng.
- Đảng viên
có hành vi chống lại các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định,
quyết định, kết luận của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được hiểu
là đảng viên cố tình không thực
hiện, thực hiện không đúng hoặc có hành vi phủ định, bác bỏ, vô hiệu hóa các
chủ trương, nghị quyết, quyết định, quy định, quy chế, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Về Điểm b, Khoản 3, Điều 8:
Có hành vi, việc làm nhằm phá hoại cuộc bầu cử.
- Vận động
bầu cử không đúng quy định.
- Đảng viên
cố tình không đi bầu cử, có hành
vi ngăn cản, đe dọa, cưỡng ép người khác không thực hiện quyền ứng cử, đề cử và
bầu cử.
- Có các
hành vi, việc làm khác nhằm phá hoại cuộc bầu cử như: hủy hoại các tài liệu, văn
bản, thông báo... về bầu cử; làm sai lệch
hoặc tác động làm sai lệch kết quả bầu cử.
a) Về Điểm b, Khoản 1, Điều 9:
Tự ý phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí và các phương tiện truyền thông khác,
vi phạm những điều cấm của Luật Báo chí, Luật Xuất bản và những quy định khác
của Đảng và Nhà nước về phát ngôn, cung cấp thông tin, tuyên truyền, xuất bản.
- Phát
ngôn, trả lời phỏng vấn, viết bài cho báo chí (kể cả báo chí nước ngoài) có nội dung trái với Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị,
quyết định, quy định, quy chế, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
- Phát ngôn
không đúng lúc, đúng chỗ, không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng; phát
ngôn loan truyền những thông tin sai sự thật; phát ngôn những vấn đề chưa được
cấp có thẩm quyền kết luận hoặc đã được kết luận nhưng không được phát ngôn
hoặc không được phép công bố.
- Cung cấp
để đăng những thông tin trái qui định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước, những tin, bài có nội dung kích động, chống đối, cản trở việc thực hiện
đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Sử dụng
các văn kiện, tài liệu lưu hành nội bộ để đưa lên các phương tiện thông tin đại
chúng.
- Đăng tin,
bài, hình ảnh mô tả quá tỷ mỷ về những vụ án mang tính kích động; đưa các hình
ảnh bạo lực, khiêu dâm, thiếu văn
hóa lên truyền hình, báo chí, tập san.
- Đăng bài,
phát tin về những hủ tục mê tín, dị đoan; những việc liên quan đến đời tư, thư
riêng của công dân trái pháp luật.
- Đưa tin
sai sự thật mà không cải chính hoặc đã cải chính nhưng không đúng quy định của
Luật Báo chí.
- Lợi dụng
tự do ngôn luận tự do báo chí để tuyên truyền cho tổ
chức, cơ quan, đơn vị, cá nhân không đúng sự thật.
b) Điểm b,
Khoản 2, Điều 9:
Cung cấp thông tin, tài liệu cho tổ chức, cá nhân, cho báo chí những vấn đề thuộc bí mật của Đảng, Nhà nước; thuộc nguyên
tắc và quy định của Đảng. Cung cấp thông tin chưa được phép; sai sự thật, không
trung thực cho báo chí.
- Bí mật
của Đảng, Nhà nước bao gồm: thông tin, tài liệu được quy định là thông tin, tài
liệu có đóng dấu MẬT, "TỐI MẬT”, "TUYỆT MẬT" hoặc những băng,
đĩa ghi âm, ghi hình, ổ cứng, USB, máy tính có chứa nội dung
thông tin, tài liệu, hình ảnh mật, hoặc quy định chỉ lưu hành nội bộ (kể cả bản
sao chép, sao chụp hoặc trích các loại thông tin, tài liệu đó). Danh mục bí mật được quy
định trong Pháp lệnh về bí mật Nhà nước được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông
qua ngày 28-12-2000; các Nghị định của Chính phủ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an; các quy định của Đảng, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị -
xã hội, tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật.
- Để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những
thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước, những việc chưa được phép công
bố ra ngoài phạm vi (nội dung, đối tượng) cho phép.
- Loan
truyền những thông tin sai lệch, có động cơ xấu, những thông tin về nhân sự
chưa được tổ chức đảng thông báo, tiết lộ bí mật của Đảng và Nhà nước.
- Những
thông tin chưa được phép công bố bao gồm: những thông tin, tài liệu, dữ liệu thuộc về chủ trương, đường lối,
chính sách, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế, kết luận của
Đảng, Nhà nước còn đang nghiên cứu, soạn thảo hoặc đã hoàn thành nhưng chưa
được cấp có thẩm quyền cho phép công bố. Các tài liệu, thông tin về những vụ
việc liên quan đến tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên đang được thẩm tra, xem xét
hoặc đã được tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, kết luận nhưng theo quy định
chưa được phép công bố.
c) Về Điểm b, Khoản 3, Điều 9:
Lợi dụng dân chủ, nhân quyền hoặc góp ý với
Đảng, Nhà nước để tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước; cố ý nói,
viết, lưu giữ trái phép hoặc tán phát rộng rãi các tài liệu có nội dung trái
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng hoặc đưa lên mạng những nội
dung chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
- Lợi dụng
dân chủ, nhân quyền để tuyên truyền chống Đảng là việc lợi dụng quyền cơ bản của công dân
được quy định trong Hiến pháp như: tự do hội họp, tự do đi lại; tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; quyền được khiếu nại, tố cáo; tổ chức các hoạt động hoặc có
lời nói, việc làm trái quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
nhằm hoạt động chống Đảng và Nhà nước.
- Lợi dụng
quyền phê bình, tự do ngôn luận, tự do báo chí, diễn đàn, câu lạc bộ để phát
ngôn hoặc lợi dụng việc phản ánh, góp ý kiến để nhận xét, bình luận, đánh giá
đối với tổ chức, cá nhân ngoài phạm vi tổ
chức cho phép.
d) Về Điểm c, Khoản 3, Điều 9:
Kích động, lôi kéo người khác tham gia hội thảo, tọa
đàm ở trong nước hoặc ngoài nước không được tổ chức có thẩm quyền cho phép, có nội dung trái chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Chuẩn bị
kế hoạch, tuyên truyền, vận động, chuẩn bị nội dung, hình thức tổ chức và phân công người thực hiện các bước
phục vụ việc hội thảo, diễn đàn khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép.
- Đảng viên tổ chức các diễn đàn, các cuộc họp, hội thảo
khi chưa được cấp có thẩm quyền cho phép hoặc không đúng với nội dung, phạm vi,
hình thức cho phép của cấp có thẩm
quyền.
- Tổ chức
hoặc cố ý tham gia các diễn đàn, các cuộc họp, hội thảo có nội dung trái với
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
4. Vi phạm trong công tác tổ chức, cán bộ (Điều 10 của
Quy định)
Về Điểm b, Khoản 3, Điều 10:
Chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy tuổi, chạy luân chuyển, chạy tội; mua chuộc người
khác để bản thân hoặc người khác được đềbạt, bổ nhiệm, chuyển đổi vị trí công tác.
- Lợi dụng
chức vụ, quyền hạn của mình; lợi dụng ảnh hưởng của người có chức vụ, quyền
hạn; quan hệ tình cảm, dùng vật chất hoặc các hình thức khác để tác động, mua
chuộc, gây áp lực với cá nhân, tổ chức có trách nhiệm giải quyết để bản thân hoặc người khác được cấp
văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận; được đề bạt, bổ nhiệm, chuyển đổi vị trí công
tác, ứng cử, đề cử, đi học, thi nâng ngạch, luân chuyển công tác; được xác
nhận, quyết định thay đổi năm sinh để kéo dài thời gian công tác không đúng
tiêu chuẩn quy định nhằm mưu cầu lợi ích cá nhân.
- Chủ trì,
tham gia tổ chức, vận động, lôi kéo, tập hợp đảng viên, quần chúng mang tính
cục bộ địa phương, phe cánh, họ tộc, nhóm lợi ích nhằm tranh giành vị trí công
tác, chức vụ trong bầu cử, bổ nhiệm, sắp xếp, bố trí cán bộ của Đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị
- xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, doanh nghiệp.
5. Vi phạm trong công tác phòng, chống tội phạm (Điều 12
của Quy định)
Về các nội dung chung trong Điều 12:
- Đối tượng xử lý kỷ luật:
Đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức
đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội, đơn vị lực
lượng vũ trang; cấp ủy viên từ cấp cơ sở trở lên; cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng trực tiếp phòng, chống tội phạm.
- Phạm vi trách
nhiệm, hậu quả dẫn đến vi phạm phải xử lý kỷ luật:
+ Đảng viên là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cấp ủy viên các cấp;
cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng trực tiếp phòng, chống tội phạm: thiếu trách nhiệm để tình hình tội phạm
thuộc địa phương, lĩnh vực, đơn vị trực tiếp phụ trách hoặc được phân công theo
dõi,quản lý xảy ra phức tạp, nghiêm trọng; bao
che, dung túng, tiếp tay cho tội phạm hoặc có tiêu cực, tham
nhũng trong công tác phòng, chống tội phạm.
+ Đảng viên do thiếu trách nhiệm trong giáo dục, nhắc
nhở, ngăn ngừa để vợ (chồng), con vi phạm do lỗi cố ý, bị xử lý hình sự, phải chịu trách nhiệm liên đới. Con của đảng viên
vi phạm mà đảng viên phải chịu trách nhiệm liên đới gồm con đẻ, con nuôi hợp
pháp, con dâu, con rể đang trực tiếp phụ thuộc vào việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
quản lý của đảng viên đó hoặc có con
công tác cùng tổ chức, cơ quan, đơn
vị do mình trực tiếp phụ trách.
"Trách nhiệm liên
đới” của đảng viên trong lực
lượng phòng, chống tội phạm là trách nhiệm khi có vợ (chồng), con và cấp dưới
trực tiếp của mình phạm tội, bị xử lý hình sự.
Hậu quả do
hành vi vi phạm của vợ (chồng), con, cấp dưới trực tiếp của đảng viên gây ra
được phân biệt ở các mức: Vi phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng được áp
dụng theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành.
+ Cán bộ
trực tiếp tham gia lực lượng phòng, chống tội phạm là cán
bộ có nhiệm vụ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thanh tra, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án hoặc xử lý đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật; tham mưu
trong công tác xét đặc xá, ân giảm.
6. Vi phạm về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại,
tố cáo (Điều 14 của Quy định)
a) Về Điểm a, Khoản 1, Điều 14:
Viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên. Cùng người khác tham gia viết, ký tên trong cùng một đơn tố cáo được thể
hiện cụ thể ở các hành vi như:
- Viết đơn
tố cáo nhưng không ký tên hoặc ghi tên người khác vào đơn.
- Trực tiếp
viết đơn tố cáo cho nhiều người cùng ký tên vào đơn.
- Phác thảo
đề cương, hướng dẫn, đọc nội dung
đơn tố cáo cho người khác viết lại, đánh máy hoặc tự đánh máy rồi chuyển cho
nhiều người cùng ký tên vào đơn.
- Từ 2
người trở lên cùng ký tên vào một đơn tố cáo.
b) Về Điểm c, Khoản 1, Điều 14:
Cá nhân có
trách nhiệm nhưng tiết lộ họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và những thông tin, tài liệu khác
làm lộ danh tính người tố cáo, nội dung tố cáo; tiết
lộ các thông tin, tài liệu, chứng cứ của vụ việc cho tổ chức hoặc cá nhân không có trách nhiệm biết.
- Tổ chức,
cá nhân có trách nhiệm nhận, giải quyết đơn tố cáo gồm: Tổ chức, cá nhân theo
quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước được tiếp nhận, xử lý đơn tố cáo;
được phân công trực tiếp giải quyết đơn tố
cáo.
- Tổ chức,
cá nhân không có trách nhiệm giải quyết đơn tố cáo gồm: Tổ chức, cá nhân theo quy
định của Đảng, pháp luật của Nhà nước không được giao trách nhiệm giải quyết
đơn tố cáo thì khi nhận được đơn tố cáo phải chuyển cho cơ quan có thẩm quyền
giải quyết; không được tiết lộ họ, tên,
địa chỉ của người tố cáo và nội
dung đơn tố cáo; đảng viên là kiểm tra viên, thanh tra viên, điều tra viên, kiểm sát viên và các đảng
viên khác không được tự ý dùng đơn tố cáo để hù dọa tổ
chức, cá nhân có liên quan.
c) Về Điểm d, Khoản 1,
Điều 14:
Thiếu trách nhiệm, gây phiền hà, sách nhiễu trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc
gây khó khăn, nhũng nhiễu, cản
trở đảng viên, công dân trong việc thực hiện quyền tố cáo, khiếu nại.
- Nhận được
đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền và trách nhiệm giải quyết nhưng dìm bỏ, không xem xét, giải quyết. Tán
phát những đơn nặc danh, mạo danh có động cơ xấu.
- Xem xét,
giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo không kịp thời theo đúng thời gian quy định
của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà không có lý do chính đáng; giải quyết không
khách quan; tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo, hoặc đưa toàn
văn nội dung đơn tố cáo cho người bị tố cáo.
- Đưa ra
yêu cầu trái với quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với người khiếu
nại, tố cáo.
- Không
hướng dẫn cụ thể để người khiếu nại, tố cáo phải đi lại nhiều lần. Tự đặt ra
các quy định trái với quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với người
khiếu nại, tố cáo.
d) Về Điểm đ, Khoản 2, Điều 14:
Có hành vi đe dọa, trả thù, trù dập, xúc phạm người phát
hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo (gọi chung là
người tố cáo), cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ về hành vi tham nhũng, tiêu cực hoặc người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Có lời nói hoặc thông qua người khác đe
dọa xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, xâm phạm quyền
lợi ích hợp pháp, các hoạt động kinh doanh, nghề nghiệp của người tố cáo, người
thân của người tố cáo.
- Ngăn cản,
gây khó khăn cho việc thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp trong việc nâng
ngạch, nâng lương, khen thưởng, bổ nhiệm
và việc thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người tố cáo, người thân
của người tố cáo.
- Phân biệt
đối xử, lôi kéo người khác cản trở việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người tố cáo, người thân của người tố cáo.
- Xử lý
trái pháp luật, thay đổi công việc của người tố cáo, người thân của người tố
cáo với động cơ trù dập.
- Trực tiếp
hoặc thuê, nhờ người khác đe dọa, trấn áp, trả thù, trù dập, khống chế, vu
khống người trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Trực tiếp
gặp, điện thoại hoặc dùng các hành vi khác gây sức ép với người trực tiếp giải quyết hoặc cấp trên của họ
nhằm làm sai lệch nội dung giải quyết khiếu nại, tố cáo.
7. Vi phạm các quy định về phòng, chống tham nhũng, lãng
phí (Điều 15 của Quy định)
a) Về Điểm c, Khoản 2, Điều
15:
Đưa, nhận, môi giới hối lộ; môi giới làm thủ tục hành chính hoặc lợi dụng
vị trí công tác để môi giới hưởng thù lao dưới mọi hình thức trái quy định.
Đưa, nhận hoa hồng hoặc môi giới đưa, nhận hoa hồng trái quy định. Nhũng nhiễu, vòi vĩnh khi thực hiện
công vụ.
- Lợi dụng
ký kết hợp đồng kinh tế, giữa bên mua và bên bán, giữa bên A và bên B (trong
xây dựng cơ bản) đã có hành động
thỏa thuận ngầm với nhau bằng thủ đoạn "trích thưởng", "gửi tiền
thưởng", “gửi giá" hoặc thông đồng khai gian khối lượng,
chất lượng (ít thành nhiều, xấu thành tốt, gần thành xa, rẻ thành đắt,...) để
tham ô, chia nhau làm thất thoát lớn tiền bạc, tài sản của Nhà nước, của tập
thể.
- Đảng viên
được giao đại diện cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp trong quan hệ kinh
tế, thỏa thuận hoặc ký hợp đồng mua bán nguyên liệu, vật tư, thiết bị, hàng hóa
với công ty nước ngoài; đã cố ý hoặc đã nhiều lần ký những hợp đồng có lợi cho
công ty nước ngoài, gây thiệt hại cho Nhà nước, doanh nghiệp Việt Nam, mà người
thực hiện ký hợp đồng được công ty nước ngoài tặng quà, tiền thưởng trái quy
định.
- Đảng viên
nhận hối lộ, đưa hối lộ dưới mọi hình thức, thủ đoạn trong tất cả các khâu như:
đấu thầu, giao thầu, nhận thầu, chỉ định thầu, nghiệm thu sản phẩm, công trình;
tiêu thụ sản phẩm, ký hợp đồng mua, bán hàng hóa, vật tư, tài sản cố định, ký
kết hợp đồng, chuyển đổi tiền, cấp vốn, cho vay vốn, đấu giá quyền sử dụng đất, cho thuê đất, cấp đăng ký kinh
doanh, cấp phép đầu tư, cấp giấy phép xuất, nhập khẩu, xét duyệt ngân sách, xét
miễn, giảm thuế, xét tuyển lao động, tuyển sinh, xét duyệt đi nước ngoài; khám
xét, bắt giữ, xét xử án dân sự, hình sự, kinh tế, lao động; thi hành
án.
- Trường
hợp cố ý ra điều kiện, vòi vĩnh, đòi hỏi, gây khó khăn, bằng thủ đoạn kín đáo,
tinh vi hoặc công khai, trắng trợn buộc người khác phải đưa hối lộ, biếu quà
thì mới đáp ứng yêu cầu công việc, hoặc nhận hối lộ rồi mới giải quyết trái quy
định, thể lệ, nguyên tắc, chính sách.
- Trường
hợp nhận hối lộ nhưng qua kiểm
điểm đã tự giác nhận khuyết điểm, sai phạm, chủ động khai báo với tổ chức, nộp lại tiền, tài sản hối lộ thì tùy nội
dung, tính chất, mức độ, tác hại và nguyên nhân vi phạm mà xem xét, xử lý cho phù hợp.
b) Về Điểm d, Khoản 2, Điều 15:
Tham ô tài sản, lợi
dụng chính sách an sinh xã hội và quỹ
cứu trợ, cứu nạn để tham nhũng; lợi
dụng việc lập các loại quỹ để trục lợi.
Tài sản bị tham ô bao gồm cả tiền, tài sản của Đảng, Nhà
nước, của tập thể, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, xã
hội nghề nghiệp. Cụ thể như sau:
- Kinh phí
của các tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp,
tổ chức kinh tế của Nhà nước, các đơn vị lực lượng vũ trang, đơn vị sự nghiệp, tiền đảng phí.
- Tài sản
bị chiếm đoạt là vật tư, phương tiện, các loại
máy móc, khí tài, trang bị, thiết bị.
- Tham
nhũng trong việc lấn chiếm đất
đai, chiếm dụng nhà, đất; lợi dụng vị trí công tác mua đi, bán lại nhà, đất,
vật tư, hàng hóa, thiết bị, phương tiện để trục lợi.
- Tiền tuất
của gia đình liệt sỹ, quà ủng hộ biên giới, hải đảo, cứu trợ bão lụt, các quỹ
từ thiện, nhân đạo.
8. Vi phạm về quản lý, cấp phát, sử dụng văn bằng, chứng
chỉ không hợp pháp (Điều 21 của Quy định)
a) Về Điểm a, Khoản 1, Điều 21:
Nhận và sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận không hợp
pháp.
Người không học hoặc có học nhưng không đủ điều kiện dự
thi, không đủ tiêu chuẩn, điều kiện được cấp văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận
nhưng đã được tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cấp văn
bằng, chứng chỉ, chứng nhận trái quy định.
b) Về Điểm a, Khoản 2, Điều 21:
Xin, mua, sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận không hợp
pháp để lập hồ sơ dự thi tuyển, xét tuyển, học tập nâng cao trình độ văn hóa, lý luận,
nghiệp vụ, thi chuyển ngạch, nâng bậc để được đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử, phong tặng hoặc công nhận các danh hiệu của Đảng và Nhà nước.
- Không học, không thi nhưng đã can thiệp, tác
động đến tổ chức hoặc người có thẩm quyền quản lý hồ sơ, cấp phát văn bằng,
chứng chỉ, chứng nhận để có văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận; hoặc dùng tiền hay
vật chất khác để mua, đánh đổi để có văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận.
- Dùng văn bằng, chứng chỉ, chứng
nhận không hợp pháp (bằng giả, bằng không đủ điều kiện, tiêu chuẩn, bằng tẩy
xóa) để lập hồ sơ dự thi tuyển, xét tuyển, học tập nâng cao trình độ văn hóa,
lý luận, nghiệp vụ, thi chuyển ngạch, nâng bậc để được đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử
vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc được phong tặng, công nhận các danh hiệu
của Đảng và Nhà nước.
c) Về Điểm đ, Khoản 2, Điều 21:
Làm giả hoặc cố ý sửa chữa, bổ sung, xác nhận sai sự thật làm sai lệch hồ sơ để cấp có thẩm quyền cấp phát văn bằng,
chứng chỉ cho người không đủ điều kiện, tiêu chuẩn; sửa chữa, bổ sung làm sai
lệch các nội dung trong văn bằng, chứng chỉ phục vụ cho hành vi trái pháp luật.
Đảng viên được giao quản lý hồ sơ, cấp phát văn bằng,
chứng chỉ không tuân thủ các quy trình, quy định về bảo vệ, bảo mật, đã trực
tiếp thực hiện hoặc để cho
người khác thực hiện hành vi làm sai lệch nội dung hồ sơ học tập, như: sửa
điểm, nâng điểm, đánh tráo bài thi hoặc có các hành vi vi phạm khác để cấp văn
bằng, chứng
chỉ cho người không đủ điều kiện, tiêu chuẩn.
9. Vi phạm quy định về kết hôn với người
nước ngoài (Điều 24 của Quy định)
a) Về Điểm a, Khoản 2, Điều 24:
Có vợ (chồng) là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
hoặc kết hôn với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng không báo cáo với cấp
ủy trực tiếp quản lý và cấp ủy nơi mình sinh hoạt.
- Đảng viên có vợ hoặc chồng là người nước ngoài hoặc người
Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng không báo cáo rõ về lai lịch, thái độ chính trị của vợ hoặc chồng, nơi người vợ
hoặc chồng sinh sống với chi bộ nơi mình sinh hoạt.
- Đảng viên kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt
Nam định cư ở nước ngoài không báo cáo cấp ủy trực tiếp quản lý theo phân cấp
quản lý cán bộ và cấp ủy nơi mình sinh hoạt về lai lịch và thái độ chính trị của
người mà đảng viên dự định kết hôn.
b) Về Điểm c, Khoản 2, Điều 24:
Có hành vi ép con kết hôn với
người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhằm vụ lợi.
- Ép con kết hôn được hiểu là việc dùng quyền của cha mẹ để
buộc con của mình phải kết hôn với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài mà không được sự đồng ý của con hoặc không đúng các quy định của
pháp luật.
- Ép con kết hôn với người nước ngoài, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài nhằm vụ lợi cho bản thân hoặc cho gia đình mình.
c) Về Điểm b, Khoản 3, Điều 24:
Kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư
ở nước ngoài mà người đó có hoạt động phạm tội nghiêm trọng, có thái độ hoặc
hoạt động chống Đảng, Nhà nước.
- Đảng viên kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt
Nam định cư ở nước ngoài mà người đó có hoạt động phạm tội nghiêm trọng theo
quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Đảng viên không biết rõ lai lịch, thái độ chính trị của
người mà mình dự định kết hôn hoặc người dự định kết hôn đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của nước nơi người đó cư trú hoặc Đảng, Nhà nước Việt Nam
kết luận có thái độ chính trị phản động, chống Đảng, Nhà nước (trước đây cũng
như hiện nay) nhưng đảng viên vẫn kết hôn.
d) Về Điểm c, Khoản 3, Điều 24:
Kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không báo cáo bằng văn bản với chi bộ về
các nội dung có liên quan đến lai lịch của người đó, hoặc đã
báo cáo nhưng tổ chức đảng có thẩm quyền không đồng ý nhưng
vẫn cố tình thực hiện.
Đảng viên kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt
Nam định cư ở nước ngoài mà không báo cáo bằng văn bản với chi bộ về lai lịch,
thái độ chính trị của người mà mình dự định kết hôn nhưng đã tự ý đăng
ký kết hôn
với người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi chưa được tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, đồng ý bằng văn bản.
đ) Về Điểm d, Khoản 3, Điều 24:
Cố tình che giấu tổ chức đảng; ép con quan hệ hôn nhân với người nước ngoài, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài trái với quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Đảng viên đã thực hiện hôn nhân thực tế với người nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức đảng yêu cầu phải làm thủ
tục đăng ký kết
hôn theo quy định của pháp luật nhưng đảng viên không thực hiện. Hoặc đảng viên làm thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan tư pháp có thẩm quyền nhưng
đã bị từ chối, không cho đăng ký kết hôn mà đảng viên không báo cáo với tổ chức đảng
có thẩm quyền mà vẫn kết hônhoặc sống
chung với
người đó như vợ chồng.
- Đảng viên kết hôn với người nước ngoài, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài không thực hiện trách
nhiệm báo cáo với tổ chức đảng theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà
nước.
- Đảng viên có hành vi cố tình che giấu tổ chức đảng về
việc có con quan hệ hôn nhân với người nước ngoài hoặc người Việt Nam
định cư ở nước ngoài trái với quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Đảng viên trực tiếp làm thủ tục kết hôn, ly hôn hoặc cấp
giấy xác nhận tình trạng hôn nhân mà cố ý bao che, tạo điều kiện cho người
Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trái pháp
luật.
10. Vi phạm quy định về chính sách dân số
và kế hoạch hóa gia đình (Điều 26 của Quy định)
a) Về Khoản 2, Điều 26:
Trường hợp vi phạm đã bị xử lý kỷ luật theo quy định tại Khoản 1 Điều này mà tái phạm
hoặc vi phạm lần đầu gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc vi phạm trong trường
hợp sinh con thứ tư (trừ những trường hợp pháp luật có quy định
khác) hoặc vi phạm trong trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức
cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ):
Hành nghề y, dược mà thiếu trách nhiệm trong thực hiện
các biện pháp kế hoạch hóa gia đình làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của người khác.
b) Về Khoản 3, Điều 26:
Trường hợp vi phạm quy định tại Khoản 1, Khoản 2
Điều này gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc vi phạm trong trường hợp sinh con thứ năm trởlên hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ:
- Gian dối trong việc cho con đẻ hoặc nhận nuôi con nuôi mà
thực chất là con đẻ nhằm cố tình sinh thêm con ngoài quy định.
- Hành nghề y, dược mà thiếu trách nhiệm trong việc hướng dẫn, cung
cấp, sử dụng thuốc và các dụng cụ thực hiện kế hoạch hóa gia đình gây thiệt hại
đến
sức khoẻ, tính mạng của người khác.
c) Những trường hợp sau đây không vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình:
- Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong
hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy
cơ suy giảm số dân (tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết) theo công bố chính
thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Cặp vợ chồng sinh lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên.
- Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh
hai con trở lên.
- Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm
sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi.
- Cặp vợ chồng sinh con lần thứ ba,
nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm
nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh
hoặc cấp Trung ương xác nhận.
- Cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ):
+ Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã
có con riêng (con đẻ).
+ Sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng
một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng (con đẻ). Quy định này không áp
dụng cho trường hợphai người đã
từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống.
- Phụ nữ
chưa kết hôn sinh một hoặc hai con trở
lên trong cùng một lần
sinh".
- Sinh con
thứ ba trở lên trước ngày 19-01-1989 (ngày có hiệu lực thi hành Quyết định số
162-HĐBT, ngày 18-10-1988 của Hội đồng Bộ trưởng“Về một số chính sách dân số và
kế hoạch hóa gia đình”).
d) Đảng
viên dự bị nếu vi phạm chính sách dân số kế
hoạch hóa gia đình, sinh con thứ tư thì xóa tên trong danh sách đảng viên.
11. Vi phạm về tệ nạn xã hội (Điều 30 của Quy định)
a) Về Điểm a, Khoản 1, Điều 30:
Để bố, mẹ, vợ (chồng), con cùng sống trong gia đình tham
gia đánh bạc, cho vay nặng lãi dưới mọi hình thức mà không có biện pháp ngăn chặn
hoặc không báo cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đảng viên trực tiếp thực hiện hoặc không can ngăn để bố,
mẹ, vợ (chồng), con thực hiện một trong các hành vi đánh bạc sau đây mà chưa
đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự:
- Mua, bán số đề, bảng đề hoặc bán thơ đề, ghi đề thuê để hưởng
hoa hồng.
- Đánh bạc dưới các hình thức như: xóc đĩa, tá lả, tổ tôm,
tú lơ khơ, tam cúc, ba cây, tứ sắc, đỏ đen, đánh cờ hoặc các hình thức khác
được, thua bằng tiền, hiện vật.
- Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử hoặc dưới các hình
thức "cá độ" khác.
- Cá cược ăn tiền dưới mọi hình thức trong hoạt động thi
đấu thể thao, vui chơi giải trí và các hoạt động khác.
b) Về Điểm a, Khoản 2, Điều 30:
Bản thân sử dụng các chất ma túy hoặc tham gia các tệ nạn
xã hội khác.
- Đảng viên có hành vi sử dụng
các chất ma túy dưới mọi hình thức nhưng chưa đến mức
nghiện.
- Đảng viên nghiện ma túy đã được giáo dục, nghiêm túc tiếp
thu sửa chữa.
- Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay tại sòng bạc, nơi đánh bạc
khác.
- Làm bảo vệ tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác hoặc che dấu
việc đánh bạc; làm thơ đề.
c) Về Điểm c, Khoản 2, Điều 30:
Tàng trữ, lưu hành, mua bán, vận chuyển văn hóa phẩm có nội dung độc
hại.
- Tổ chức trò chơi điện tử có nội dung khiêu dâm, kích động
bạo lực hoặc có nội dung độc hại khác.
- Bán tranh ảnh, băng, đĩa hoặc cho thuê băng, đĩa trò chơi
điện tử có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực, có nội dung độc hại khác hoặc
sản xuất, nhập khẩu, buôn bán đồ chơi gây hại cho giáo dục
nhân cách và sức khỏe trẻ em, khuyến khích bạo lực, kinh dị.
- Treo, trưng bày tranh, ảnh, lịch hay hiện vật khác có nội dung đồi trụy, khiêu dâm, kích động bạo lực tại vũ trường, nơi
khiêu vũ công cộng, nhà hàng karaoke hoặc tại nơi tổ chức
hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng khác.
- Lưu hành băng đĩa ca nhạc, sân khấu đã có quyết định cấm
lưu hành, quyết định thu hồi, tịch thu hoặc có nội dung đồi truỵ, khiêu dâm,
kích động bạo lực tại vũ trường, nơi khiêu vũ công cộng, nhà hàng karaoke và
những nơi tổ chức hoạt động văn hóa kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng khác.
d) Về Điểm a, Khoản 3, Điều 30:
Đánh bạc, tổ chức đánh bạc dưới mọi hình thức.
Đảng viên vi phạm một trong các hành vi sau đây chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự:
- Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay tại sòng bạc, nơi
đánh bạc khác.
- Làm bảo vệ trái phép tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác.
- Đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép.
- Tổ chức hoặc tham gia hoạt động
cá cược ăn tiền, làm chủ lô, đề; tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề;
tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh đề.
- Tổ chức hoặc tham gia các loại chơi cá cược,
cá độ trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí
hoặc bằng các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền.
- Bản thân tổ chức, tham gia đánh bạc hoặc rủ rê, lôi kéo,
tụ tập người khác để đánh bạc; dùng nhà của mình hoặc địa điểm khác để chứa
bạc, gá bạc.
đ) Về Điểm c, Khoản 3, Điều 30:
Sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển ma túy; tổ chức sử dụng trái phép các chất ma túy.
- Có hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái
phép các chất ma túy mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Buôn bán, chứa chấp, tàng trữ các chất ma túy, vận chuyển
qua biên giới kể cả từ nước ngoài vào và từ trong nước ra và buôn bán, vận
chuyển từ địa phương này đến địa phương khác các chất ma túy bị cơ quan có thẩm
quyền bắt giữ với số lượng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự.
- Nghiện ma túy đã được giáo dục nhiều lần mà không sửa
chữa.
- Tổ chức sử dụng các chất ma túy dưới mọi hình thức.
e) Về Điểm d, Khoản 3, Điều 30:
Cho vay nặng lãi, sử dụng các hành vi trái pháp
luật dưới mọi hình thức để đòi nợ.
- Trực tiếp đứng ra làm "chủ hụi, họ" hoặc "cái hụi, họ", dù một hay nhiều dây hụi, họ làm tổn
hại tiền, tài sản của Nhà nước, của tập thể hoặc của công dân để trục lợi.
- Tuy không trực tiếp nhưng thông qua người thân (cha,
mẹ, vợ, chồng, con) đứng ra làm chủ hụi, họ để thu lợi bất chính, thì tùy nội
dung, mức độ, tính chất, tác hại, nguyên nhân vi phạm để xem xét, xử lý thích
hợp.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn, nhiệm vụ được giao để lừa
dối lấy tiền công quỹ hoặc vay tiền của các tổ chức tài chính, tín dụng, ngân
hàng dùng vào mục đích cho vay nặng lãi
hoặc chơi hụi, họ.
- Trực tiếp thu gom hoặc môi giới trong việc
thu gom tiền của người khác để cho vay với lãi suất cao hơn
để hưởng chênh lệch.
- Có trách nhiệm hoặc được giao trách nhiệm giải quyết
những trường hợp vỡ hụi, họ, lừa đảo, trốn nợ mà giải quyết có lợi cho người trong gia
đình, người thân quen không đúng quy định.
12. Vi phạm về đạo đức, nếp sống văn minh
(Điều 32 của Quy định)
a) Về Điểm a, Khoản 1, Điều 32:
Tổ chức việc cưới, việc tang, các ngày lễ, tết, sinh
nhật, mừng thọ, kỷ niệm ngày cưới, mừng nhà mới, lên chức, lên cấp,
chuyển công tác xa hoa, lãng phí hoặc trái quy định.
- Tổ chức tiệc cưới nhiều lần, nhiều nơi nhằm vụ lợi.
- Tổ chức tiệc cưới ở những nơi chi phí quá tốn kém, không
phù hợp với đời sống, thu nhập chung của cộng đồng dân cư và cán bộ, công chức.
- Tổ chức việc cưới không thực hiện đúng các thủ tục kết
hôn theo quy định của pháp luật; tiến hành các nghi thức hôn lễ có tính phô trương, lãng phí, không phù hợp với quy định về nếp sống
văn minh.
- Lợi dụng việc hiểu, việc hỷ (làm tang cho cha, mẹ, vợ
(chồng); gả chồng, cưới vợ cho con) nhằm mục đích vụ lợi.
b) Về Điểm b, Khoản 1, Điều 32:
Vi phạm các quy định về cấm uống rượu,
bia làm ảnh hưởng đến tư cách đảng
viên.
- Uống
rượu, bia trong giờ làm việc làm ảnh hưởng đến thời gian và chất lượng công
việc.
- Say rượu, bia ở công sở, nơi làm việc,
khách sạn, nhà hàng, quán ăn, nơi hoạt động văn hóa, kinh doanh dịch vụ văn
hóa, trên các phương tiện giao thông và những nơi công cộng khác.
- Uống rượu, bia đến mức bê tha, làm bê trễ công việc; hành
hạ vợ, con, gây gổ, đánh chửi nhau, làm mất an ninh trật tự, bị quần chúng phản
đối.
c) Về Điểm a, Khoản 3, Điều 32:
Là lãnh đạo, chỉ huy nhưng có hành vi xúc phạm nghiêm trọng đến
nhân phẩm, danh dự hoặc dùng nhục hình đối với cán bộ, chiến sỹ, nhân viên
dưới quyền.
- Dùng nhục hình là hành vi mà cán bộ, đảng viên là lãnh
đạo, chỉ huy sử dụng như tra tấn, đánh đập, bắt nhịn ăn, giam giữ, cùm kẹp trái
phép, gây đau đớn về thể xác, tổn hại về
sức khỏe, tinh thần đối với người khác.
- Đảng viên vì động cơ cá nhân, lợi dụng
cương vị, quyền hạn của tổ chức để trù dập người khác bằng thủ đoạn tinh vi hay
trắng trợn như tạo cớ giả để cắt lương,
thuyên chuyển, chuyển đổi vị trí công tác, buộc thôi việc đối với người dưới
quyền.
- Đảng viên có chức vụ, quyền hạn có hành động dùng quyền
thế cưỡng bức người dưới quyền trái pháp luật hoặc có hành vi khác gây khó
khăn, khốn quẫn về tinh thần hoặc đời sống của người dưới quyền.
1. Cấp ủy các cấp:
- Chỉ đạo ủy ban kiểm tra cấp mình phối hợp với ban tuyên
giáo tham mưu, giúp cấp ủy tổ chức nghiên cứu, quán triệt Quy định số 181-QĐ/TW
ngày 30-3-2013 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn này đến các tổ chức đảng và đảng
viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý để thống nhất nhận thức và hành động.
- Chỉ đạo chặt chẽ các tổ chức đảng cấp dưới, các ban của
Đảng, ủy ban kiểm tra và chi bộ thực hiện đúng phương hướng, phương châm nguyên
tắc, thủ tục trong xem xét, xử lý kỷ luật đối với đảng viên vi phạm; đề cao vai
trò, trách nhiệm
của tổ chức đảng và đảng viên trong việc tự xem xét mình và góp phần tích cực
vào việc xem xét, xử lý
đảng viên vi phạm.
- Nắm vững Quy định và Hướng dẫn thực hiện Quy định để áp
dụng việc xử lý kỷ luật đối với đảng viên vi phạm bảo đảm phương hướng,
phương châm, nguyên tắc, thủ tục, không oan sai, không sót lọt; phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế ở địa phương, đơn vị
mình. Việc xem xét, xử lý đảng viên vi phạm phải được tiến hành với tinh thần
trách nhiệm cao, chặt chẽ nghiêm túc, thận trọng,
kiên quyết, tránh buông lỏng hoặc
giản đơn, nóng vội để xảy ra sai sót.
Không được điều động đi nơi khác, không đề bạt, bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, quản
lý; không phong, tặng, công nhận các danh hiệu của Đảng và Nhà nước đối với
những đảng viên có tố cáo, có dấu
hiệu vi phạm đang trong quá trình kiểm tra, thanh tra hoặc cấp có thẩm quyền của Đảng hoặc Nhà nước đang xem xét,
giải quyết.
2. Khi cấp
ủy, ủy ban kiểm tra thi hành kỷ luật đảng viên vi phạm nếu thấy việc áp dụng
các hình thức kỷ luật chưa đúng mức thì phải chủ động hủy bỏ quyết định đó và
xem xét lại để quyết định việc áp
dụng hình thức kỷ luật cho phù
hợp hoặc bãi bỏ nếu thấy việc kỷ
luật là oan sai.
3. Các
đồng chí thành viên Ủy ban
Kiểm tra Trung ương và các vụ phụ trách lĩnh vực, địa bàn theo dõi việc thực
hiện Quy định này của cấp ủy, các ban của Đảng, ủy ban kiểm tra các
cấp và chi bộ; định kỳ hằng năm báo cáo kết quả theo dõi với Ủy ban Kiểm tra
Trung ương.
4. Định
kỳ hằng năm, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp báo cáo cấp ủy,
ủy ban kiểm tra cấp trên kết quả thực hiện Quy định này.
5. Hướng
dẫn này có hiệu lực từ ngày ký, thay thế Hướng dẫn số 11-HD/UBKTTW ngày
24-3-2008 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Hướng dẫn thực hiện Quy định số
94-QĐ/TW, ngày 15-10-2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm và Hướng dẫn số 01-HĐ/UBKTTW, ngày 26-4-2011 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về Hướng
dẫn thực hiện Quyết định số 09-QĐ/TW, ngày 24-3-2011 của Bộ Chính trị về
việc bổ sung, sửa đổi Điều 7, Quy định số 94-QĐ/TW, ngày 15-10-2007 của Bộ
Chính trị (khóa X) về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm chính sách dân số
và kế hoạch hóa gia đình; được phổ biến đến chi bộ để quán triệt và thực hiện.
Trong quá trình tổ chức thực hiện Quy định số 181-QĐ/TW,
ngày 30-3-2013 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm và Hướng dẫn
này, nếu có khó khăn, vướng mắc, các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các
cấp, chi bộ và đảng viên phản
ánh kịp thời về Ủy ban Kiểm tra Trung ương để nghiên
cứu, hướng dẫn bổ sung hoặc báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định bổ sung,
sửa đổi kịp thời./.
|
TM. ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG
Ngô Văn Dụ |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét